[ Hoạt động 5 ]: Quan niệm của các nhà triết học duy vật về Vật chất

  1. Nhiệm vụ: 

    Tìm hiểu quan niệm của về vật chất các nhà triết học duy vật từ thời cổ đại đến cận đại

  2. Phân công nhóm: 

   Cả nhóm cùng tìm hiểu và chọn lọc nội dung đã được giảng viên giao

  3. Hình thức: 

   Tìm hiểu và làm thành file word đơn để trình bày và tuần tiếp theo

  4. Nội dung:

Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học có lịch sử khoảng 2500 năm xuất hiện cùng với sự xuất hiện của triết học trong lịch sử. Ngay từ khi mới ra đời, xung quanh phạm trù Vật chất đã diễn ra cuộc đấu ranh gay gắt không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

Chủ nghĩa duy vật coi thực thể thế giới là vật chất tồn tại vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật hiện tượng và các thuộc tính của chúng.

(Ảnh minh hoạ)

Chủ nghĩa duy tâm tìm mọi cách phủ nhận và làm sụp đổ phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật. Chúng công kích, xuyên tạc phạm trù vật chất, cho rằng cơ sở tồn tại của thế giới là một bản nguyên tinh thần nào đó. Có thể là do ý Chúa, do ý niệm tuyệt đối tạo nên. Vì vậy, họ cho rằng vật chất chỉ là một phạm trù trống rỗng, phi hiện thực, một sự nhào nặn chủ quan của các nhà duy vật.

1.Thời kỳ Cổ đại

(Ảnh minh hoạ)

- Vào thời kỳ cổ đại, ở Hy Lạp nói riêng, ở phương Tây nói chung các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung với các dạng cụ thể nào đó của nó.

- Vào thời kỳ cổ đại ở phương đông quan niệm vật chất thể hiện qua một số trường phái triết học Ân Độ và Trung hoa về thế giới.

+ Ấn Độ có Trường phái LOKAYATA cho rằng tất cả được tạo ra bởi sự kết hợp trong 4 yếu tố: Đất- Nước - Lửa - Khí. Những yếu tố này có khả năng tự tồn tại, tự vận động trong không gian và cấu thành vạn vật. Tính đa dạng của vạn vật chính là do sự kết hợp khác nhau của 4 yếu tố bản nguyên đó. Phái Nyaya và Vaisesia coi nguyên tử là thực thể của Thế giới.

+ Trung Hoa có Thuyết Âm Dương cho rằng nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của vạn vật là tương tác của những thế lực đối lập nhau đó là âm và dương. Hai thế lực này thống nhất với nhau, và cũng ức chế lẫn nhau tạo thành vũ trụ và vạn vật.

* Thuyết Ngũ hành của Trung quốc có xu hướng phân tích về cấu trúc của vạn vật để quy nó về yếu tố khởi nguyên với tính chất khác nhau. Theo thuyết này có 5 nhân tố khởi nguyên là Kim- Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ.

+ Kim tượng trưng cho tính chất trắng, khô, cay, ở phía Tây

+ Mộc tượng trưng cho tính chất xanh, chua, ở phía Đông.

+ Thủy tượng trưng cho tính chất đen, mặn, ở phía Bắc.

+ Hỏa tượng trưng cho tính chất đỏ, đắng, ở phía Nam.

+ Thổ tương trưng cho tính chất vàng, ngọt, ở giữa.

=> Năm yếu tố này không tồn tại độc lập, tuyệt đối mà tác động lẫn nhau theo nguyên tắc tương sinh, tương khắc với nhau tạo ra vạn vật. Những tư tưởng về âm, dương, ngũ, hành, tuy có nhưng hạn chế nhất định nhưng đó là triết lý đặc sắc mang tính duy vật và biện chứng nhằm lý giải về vật chất và cấu tạo của vũ trụ

- Ở phương tây, các nhà triết học quy thê giới vào một chỉnh thể thống nhất từ đó đi tìm bản nguyên vât chất đầu tiên cấu tạo nên thê giới đó, chẳng hạn người ta cho rằng vật chất là nước, không khí, lửa......Một số quan điểm điển hình thời kỳ này là:

+Thales coi vật chất là nước

+ Anaximenes coi vật chất là không khí

+ Heraclitus coi vật chất là lửa

+ Đặc biệt đỉnh cao của quan niệm về vật chất của thời kỳ Hy Lạp cổ đại là thuyết nguyên tử của Leucippe và Đemocritos. Theo thuyết này thì thực thể tạo nên thế giới là nguyên tử và nó là phần tử nhỏ bé nhất và không thể phân chia được, khôg thể xâm nhập và quan sát được, chỉ có thể nhận biết được bằng tư duy. Các nguyên tử không khác nhau về chất mà chỉ khác nhau về hình dạng. Sự kết hợp các nguyên tử khác nhau theo một trật tự khác nhau sẽ tạo nên vật thể khác nhau. 

+ Thuyết nguyên tử tồn tại đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 mới bị khoa học đánh đổ và có hạn chế lịch sử nhất định. Tuy nhiên nó có ý nghĩa to lớn đối với sự định hướng cho sự phát triển khoa học nói chung đặc biệt là lĩnh vực vật lý sau này. Đồng thời nó có tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thần học, tôn giáo… .

2.Thời kỳ cận đại:

(Ảnh minh hoạ)

* Vào thế kỷ 17 và thế kỷ 18: 

Nền khoa học tự nhiên, thực nghiệm ở Châu Âu có sự phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là trên lĩnh vực vật lý học với phát minh của Newton, phương pháp nghiên cứu ở trong vật lý đã xâm nhập ảnh hưởng rất lớn vào trong triết học. Chủ nghĩa duy vật nói chung và phạm trù vật chất nói riêng đã có những bước phát triển mới chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng:

+ Copernicus chứng minh mặt trời là trung tâm đã làm đảo lộn truyền thuyết của kinh thánh và quan điểm của thần học về thế giới

+ Quan điểm của Fracis Bacon: coi thế giới vật chất tồn tại khách quan, vật chất là tổng hợp các hạt. Ông coi tự hiên là tổng hợp của những vật chất có chất lượng luôn màu, muôn vẻ.

+ Quan điểm của Gassendi: Phát triển học thuyết nguyên tử của thời cổ đại cho rằng thế giới gồm những nguyên tử có tính tuyệt đối như tính kiên cố và tính ko thể thông qua.

* Vào thế kỷ 18: 

Các nhà triết học Pháp đã phát triển phạm trù vật chất lên một tầm cao mới: Diderot cho rằng vũ trụ trong con người, trong mọi sự vật chỉ có 1 thực thể duy nhất là vật chất. Nhận thức về vật chất, mọi hiện tượng tự nhiên đã được giải thích là được tác động qua lại giữa lực hút và lực đẩy, giữa các phần tử của vật chất, các phần tử ấy là bất biến. Sự thay đổi của nó chỉ là mặt vị trí, hình thể trong không gian. Mọi sự phân biệt về chất bị xem nhẹ và đều được quy giải chỉ sự khác nhau về lượng.

* Vào thế kỷ 19:

Trong nền triết học Đức cổ điển, Feuerbach chứng minh và khẳng định rằng thế giới này là vật chất và vật chất theo ông là toàn bộ thế giới tự nhiên. Nó không do ai sáng tạo ra mà nó tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ ý niệm, ý thức nào.

Sự tồn tại của giới tự nhiên năm ngay trong lòng của giới tự nhiên. Tuy nhiên Feuerbach lại không thấy được mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, mối quan hệ giữa con người với xã hội, con người với giới tự nhiên. Ông đã không xác định được vật chất trong lĩnh vực xã hội, cũng như hoạt động vật chất của con người là gì. Mặc dù vậy những quan niệm của ông về vật chất đã có ý nghĩa lịch sử lớn lao trong cuộc đấu tranh Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, trong việc khôi phục những tư tưởng duy vật thành hệ thống.Và vì vậy, triết học duy vật của ông đã trở thành một trong nhưng tiền đề, nguồn gốc lý luận của Triết học duy vật Mác xít sau này.

3. Lời kết:

Các nhà triết học duy vật đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm đã hết sức quan tâm giải quyết vấn đề cốt lõi là Vật chất. Họ đưa ra những kiến giải khác nhau về vật chất và qua đó đã có những đóng góp hết sức quan trọng đối với lịch sử phát triển của triết học duy vật. Tuy nhiên tất cả họ đều mắc phải hạn chế lớn nhất là đã đồng nhất vật chất với vật thể hoặc một thuộc tính nào đó của vật thể, họ không thấy được sự tồn tại của vật chất gắn liền với vận động và họ không chỉ ra được biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội và chỉ đến khi triết học Marx xuất hiện thì phạm trù vật chất mới được giải quyết một cách khoa học.

Đăng nhận xét

0 Nhận xét